Thứ Tư, 20 tháng 1, 2010

Diễn ca truyền thuyết năm chị em nhà ngài


Đồng tác giả : Nguyễn Văn Dấp, Đào Ngọc Bồng
Là những lớp người được sinh ra và lớn lên khi đất nước không còn bóng thù phương Bắc, được sống yên vui hạnh phúc trên mảnh đất thân yêu này.
Nhớ về ngàn đời xưa, qua Ngọc phả năm vị Đại Vương mới nhận thấy rằng tổ tiên, ông cha ta thật vĩ đại. Một dân tộc có biết bao tài năng xuất chúng với những điển tích của nhiều thế hệ đã đi vào lịch sử truyền thống chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
Những dấu ấn trong Ngọc phả do các bậc tiền nhân lưu truyền cho hậu thế hầu hết lag chữ Hán, chưa thông dụng với người Việt hiện nay. Vì vậy Ngọc phả năm vị Đại vương đã có từ lâu đời mà đến với nhân dân vẫn còn khoảng cách.
Chúng tôi rất cảm ơn người đã dịch Ngọc phả này để mọi người cùng được đọc và hiểu sự tích một cách thuần đáo. Mặc dù không chuyên, khả năng có hạn nhưng với lòng nhiệt thành và tâm huyết đã giúp chúng tôi mạnh dạn chuyển thể Ngọc phả này thành những vần thơ để đến với nhân dân dễ dàng, lắng đọng trong lòng người được rộng rãi hơn.
Từ đó Ngọc phả luôn là tấm gương sáng ngời của những anh hùng hào kiệt với quê hương đất nước, để mọi người chung soi góp phần ghi tạc công ơn đời đời.
Trong thơ dựa vào cốt chính, có mô phỏng một vài hình ảnh làm nội dung thêm sống động và phong phú. Tuy nhiên cũng chỉ nêu được phần nào công trạng trong cả một thiên anh hùng của năm vị Đại vương.
(Lời giới thiệu cho bài  thơ do chính tác giả Nguyễn Văn Dấp viết)
Dưới đây là toàn bộ bài thơ:

Từ ngàn xưa tại quê ta
Cha ông đánh giặc thật là oai phong
Quân dân chung sức chung lòng
Có năm vị tướng cùng trong một nhà
Cùng là một mẹ một cha
Cùng ngày cùng tháng sinh ra một giờ
Cùng ăn cùng học cùng mơ
Cùng đi dẹp giặc giữ bờ cõi nam

Địa linh nhân kiệt hữu tài
Một quê năm vị nhà ngài Đại Vương
Truyền rằng triều đại bà Trưng
Ở làng Đại Bại Thiên Trường tỉnh Nam
Có người dòng dõi họ Đoàn
Thiệu Công tên gọi ông làm huyện quan
Xe duyên cùng với bà Loan
Dáng duyên của một gái ngoan họ Trần
Giỏi giang hiền hậu chuyên cần
Công dung ngôn hạnh mười phân vẹn mười
Sống vui bình đẳng mọi người
Vợ chồng hòa thuận cuộc đời ấm êm
Rượu nồng trà đượm từng đêm
Trông hoa ngắm nguyệt tầng trên hiên lầu
Đêm hè thao thức canh thâu
Chiều chiều ra tắm bến sâu giải nồng
Bỗng cơn giông tố bão bùng
Ráng trời xanh đỏ tím hồng rực lên
Mặt sông sóng vỗ mạn thuyền
Giao long thuộc dõi rồng tiên chốn này
Thân một trượng bốn thước tây
Tam mao hồng sắc ở trên đỉnh đầu
Hiện hình một thoáng không lâu
Vây chòn vấn vít quanh bầu bà Loan
Phút giây gió tạnh mây tan
Giao long cùng biến theo làn nước tong
Bà Loan bối rối trong lòng
Nửa lòng hoảng hốt nửa lòng bâng khuâng
Về nhà thưa với Thiệu Công
Chuyện nàng giao cấu Giao Long lúc rồi
Thiệu Công cho đó điềm trời
Phú một thần thủy ra đời cứu dân
Nói xong thấy bụng lớn dần
Hương thơm tỏa ngát toàn thân thể bà
Vợ chồng thầm nghĩ sự nhà
Phúc âm đưa đến ắt là vận may
Ba trăm ba chục ngày dài
Bào thai sấm động chờ ngày khai xuân
Tháng dần, ngày lục, giờ thân
Sinh ra một bọc vừa năm trứng tròn
Thiệu Công trông thấy hết hồn
Lập đàn cúng tế thần sông bến này
Tế xong năm trứng nở ngay
Mỗi con một sắc thấm đầy bồn hoa
Răng rồng mắt phượng vẩy ngà
Hai hàng vây bụng khác xa người đời
Phải chăng người của nhà trời
Cao siêu xuất chúng khác vời muôn dân
Bà Loan âu yếm ân cần
Bốn trai một gái phúc phần đến nơi
Đặt tên đặt hiệu từng người
Hiển Phi chị gái tươi cười nết na
Chàng Rồng trai cả trong nhà
Kiên Cố Nam Hải thực là đẹp danh
Đông Hải một tháng tinh nhanh
Mai này ăn học chắc thành quốc vương
Tương lai sáng lạn như gương
Xuân sinh, hạ lớn khác thường thế gian
Tháng ngày nuôi chí bền gan
Mẹ cha gánh vác lo toan học đường
Có thầy Trần Đức trong trường
Dậy các quan ở công đường bấy nay
Trong tình bạn hữu trước đây
Thu nhận năm cháu vào ngay học  cùng
Học chữ học cả kiếm cung
Thiên văn đại lý tường cùng bể khơi
Trèo non lội suối lặn bơi
Học ba biết bảy tinh khôi lạ thường
Luyện rèn gối đất nằm sương
Biết tình biết nghĩa biết thương đồng bào
Họ càng hiểu rộng biết cao
Biết người mặt đất, biết sao trên trời
Biết trừ ma quỷ giúp đời
Gọi mưa gọi gió khắp nơi quy tề
Năm năm theo học dài ghê
Những mong đỗ đạt trở về quê hương
Bỗng cơn gió bấc khôn lường
Song thân phụ mẫu bất thường quy tiên
Giữa ngày mồng sáu tháng giêng
Chị em khăn gói bút nghiên gót rời
Sót cha tiếc mẹ thương đời
Khóc than lên đến ông trời thấu cho.
Cầm lòng lo hiếu mẹ cha
Làm chay rồi lại làm ma chu toàn
Một đôi ngọc quý nước Nam
Sống chung chăn gối thác an một mồ
Núi cao biển rộng khôn đo
Công cha nghĩa mẹ bao giờ trả xong
Chị em một chí một lòng
Trả ân trả nghĩa xóm trong làng ngoài
Đất lành quê mẹ hôm nay
Ba năm khăn trắng còn lai viếng mồ
Mai sau dù có bao giờ
Dẫu xa xôi cũng hương thờ thường niên
Bái cha lạy mẹ ngủ yên
Cây đèn cặp sách bút nghiên giã từ
Gọn gàng hành lý riêng tư
Tìm nơi phong cảnh thanh thư an bài
Thong dong trên dặm đường dài
Qua nơi qua chốn bồng lai Thái Bình
Qua Thụy Anh phủ Thái Ninh
Về An Bái tổng, Thụy Quỳnh nơi đây
Quỳnh Lâm đã mấy đời nay
Mà sao phong cảnh lạ sao mới là
Thiên thời địa lợi nhân hòa
Có đồng bát ngát, có hoa bốn mùa
Có sông tắm mát nô đùa
Gió mang hơi biển dịu trưa nắng hè
Tháng giêng mồng sáu xuân về
Chị em sắm lễ đặt vô lễ chùa
Cầu cho ngô lúa được mùa
Cho dân phúc lộc cho chùa yên vui
Một năm sống với mọi người
Một đêm ra ngắm phương trời tây nam
Thấy một thần nữ tinh anh
Tướng tài đất Việt lừng danh hiện về
Chị em như tỉnh như mê
Hát giang như có thủy tề hiện ra
Tô Định giày xéo sơn hà
Vận nước đã đến vận nhà phải toan
Dù cho thịt nát xương tan
Cùng nêu gương sáng họ Đoàn nhà ta
Dốc lòng theo vị tướng bà
Trước là vì nước sau là vì dân
Cũng là đền đáp song thân
Tiếng thơm để lại cho dân Thiên Trường
Sẵn nghề điêu luyện ở trường
Xông pha chiến trận, coi thường cung tên
Truyền tin xóm dưới làng trên
Hãy cùng gia nhập nghĩa binh tức thời
Bốn em cùng chị một lời
Chiêu mãi mã khắp nơi kéo về
Xôn xao cả một vùng quê
Tiếng chiêng tiếng trống ba bề bốn bên
Người về tình nguyện ghi tên
Cùng chung ý chí vùng lên diệt thù
Thụy Quỳnh gió thổi sương mù
Tiến năm vị tướng đến từ lòng dân
Mười năm chiến sỹ làng Vân
Hai hai làng Thọ hậu cần tân binh
Ba mươi binh lính làng Quỳnh
Làng Kha cả sỹ lẫn binh là mười
Toàn vùng có đến ngàn người
Giữa trời và đất một lời sắt son
Năm tướng chốt ở năm đồn
Đào hào đắp lũy bốn thôn kiên cường
Lệnh quân nhất kỷ nhất cương
Luyện rèn cung kiếm tinh tường quân gia
Mười hai chiến trận xông pha
Là mười hai trận quân ta thắng thù
Vui từ người lính chiến khu
Vui đi, đi đến, đến từ người dân
Tiếng tăm bay tận trời xanh
Cả năm vị tướng uy danh lẫy lừng
Tự xưng năm vị Đại Vương
Nước nhà vào lúc công đường dấy binh
Rầm rầm mười vạn hùng binh
Tam Kỳ rợp đất trống chiêng động trời
Hai bà Trưng đã ra lời
Anh hùng bốn bể hợp thời đánh Tô
Hiển Phi lệnh giết trâu bò
Làm lễ yết kiết quyết phò triều Trưng
Còn nguyên ý chí quật cường
Quân hùng tướng mạnh trên đường hành binh
Tiếng theo cờ lệnh bà Trưng
Trùng trùng điệp điệp quân binh rợp trời
Tô Định khét tiếng một thời
Đánh đông dẹp bắc khắp nơi tung hoành
Sang đây hà hiếp dân lành
Vét vơ của cải chúng đem về Tầu
Quân hai bà tiến đến đâu
Thì giặc Tô Định cúi đầu khoanh tay
Sông sâu rừng thẳm tuyết dầy
Sơn cùng thủy tận phanh thây quân thù
Quân về từ khắp chiến khu
Hát Giang hội tụ hát ru vang trời
Tô Đinh đại bại nhớ đời
Chu Nga biết tiếng rụng rời chân tay
Nước bình dân thịnh từ đây
Chị em tay nắm chặt tay ra về
Quỳnh Lâm chốn cũ chùa quê
Bao năm chinh chiến nay về cố hương
Người về dân mến dân thương
Hương thơm tỏa ngát bốn phương muôn nhà
Triều Đình theo lệnh hai Bà
Cho quân lập tức điều tra ngọn ngành
Rằng năm vị tướng nhà ngài
Có công giúp nước có tài an dân
Hiển Phi là gái thanh tân
Đã vừa duyên dáng cầm quân lại tài
Chàng Rồng có một không hai
Toàn tài thao lược đã ai sánh cùng
Kiên Cố là tướng anh hùng
Giỏi văn giỏi võ lẫy lừng bốn phương
Nam Hải một tướng chắc cương
Đánh đông dẹp bắc cung thương rất cừ
Đông Hải trai út thứ tư
Mỗi khi xuất trận quân thù hoang mang
Bao phong đưa đến bản làng
Sắc phong từng cấp từng hàm vua ban
Nhà ngài năm tướng con quan
Mỗi lần thắng trận một ban công về
Họ Đoàn xum họp đuề huề
Vui ngày đoàn tụ nhớ về song thân
Khi đi là một thường dân
Ngày về là một tướng quân công đường
Hiển Phi Đông Hải Đại vương
Chàng rồng tề quốc Đại vương công đường
Kiên cố trợ quốc Đại Vương
Nam Hải tá quốc đại vương triều đình
Mừng vui non nước thanh bình
Vui từ Thái Thụy Thái Bình về đây
Quỳnh, Kha, Vân, Thọ xum vầy
Liên hoan đại tiệc mổ ngay trâu bò
Đón vàng vua đã ban cho
Mỗi lành mười nén phụng thờ mai sau
Ngắm con sông Hóa vụng sâu
Bến đò Thọ Cách thay cầu đi qua
Bến sông cây cổ thụ già
Có hang dưới gốc mãng xà nằm trong
Nhác trông như một con rồng
Mình đen mắt trắng răng trông rất gườm
Miệng to lại rộng như gầu
Một ngày nuốt mấy cái đầu như chơi
Tinh mơ tối lặn mặt trời
Đuổi thuyền mặt nước, bắt người dưới sông
Săn con, săn vợ, săn chồng
Nuốt bà, nuốt cháu, nuốt ông lão làng
Đệ đơn lên đến Ngọc Hoàng
Vẫn không cứu nước dân làng thoát oan
Phải trình nên đến vua Nam
Vua liền ra lệnh chị em nhà ngài
Chiêu hai mươi lính trẻ trai
Cùng năm vương tướng nhà ngài xuất binh
Hiển Phi liềmg hái dắt mình
Vào nơi hang ổ chúng rình bắt ta
Dấn thân tận miệng mãng xà
Đói mồi y nuốt, ruột rà phanh ra
Lệnh quan phải chặt làm ba
Cho ngay cái xác chôn ra bãi ngoài
Tháng tư ngày sáu sớm mai
Tướng quân năm vị nhà ngài diễu binh
Ruổi rong bờ biển Thái Bình
Ngắm nhìn phong cảnh bình minh bầu trời
Một cơn giông tố tơi bời
Biển xanh bỗng có sóng dồi nổi lên
Ầm ầm trên mặt nước yên
Thủy tề tức giận, hay trên thiên đình
Giao long, rùa với cá kình
Thuồng luồng dưới nước hiện hình cả lên
Đưa đoàn binh mã về tiên
Để bao thương tiếc buồn phiền khôn nguôi
Tấu vua ban, phúc lộc trời
Thương cho dân chúng, dựng nơi phụng thờ
Mồng tám tháng tám kéo cờ
Lễ ba con vật xôi vò rượu men
Tháng giêng ngày sáu lợn đen
Mồng sáu tháng bốn đốt đèn mổ trâu
Mồng một hương quả trầu cau
Ngày rằm hàng tháng cùng nhau cúng tuần
Cấm đặt trùng tên các thần
Cấm màu vàng, trắng ngày dân tế đền
Giao cho tâm sáng đức bền
Cả làng đã lập miếu đền thắp hương
Thọ thờ Kiên Cố đại vương
Quỳnh thờ Nam Hải đại vương lệ thường
Chàng rồng trợ quốc Đại vương
Vân Am sắm lễ vàng hương nhật tuần
Kha Lý thờ hai đại thần
Hiển Phi Đông Hải muôn dân ơn đời.


Làng Kha là đất mến người
Linh thiêng là bởi nhà ngày có công
Ngôi đền xưa gọi từ ông
Ai hay lui tới thì không muốn về
Cảnh quan mọc giữa miền quê
Cây đề tỏa bóng bốn bề lúa reo
Đất lành đậu những làn chèo
Trời xanh vọng tiếng sáo diều thiết tha
Đền nay hoành tráng khang trang
Mười rằm tháng tám lệ làng dâng hương
Cháu con ở khắp nẻo đường
Nhớ rằm tháng tám dâng hương cùng về
Dù ai trăm việc bộn bề
Nhớ rằm tháng tám ta về dâng hương
  
Tháng 6 năm Bính Tuất
Đồng tác giả: Nguyễn Văn Dấp, Đào Ngọc Bồng.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét